Bánh xe là một trong những phát minh tối quan trọng của loài người, giúp cải thiện vượt bậc sức sản xuất, giao thông cũng như nhiều lĩnh vực khác của đời sống con người. Bánh xe ra đời khi nào? Cho đến nay, đó vẫn còn là một câu hỏi lớn đối với các nhà sử học.
Các nhà khảo cổ tìm thấy chiếc bánh xe cổ nhất tại khu vực Lưỡng Hà (niên đại khoảng 3.500 trước Công nguyên). Trên các bức vẽ cổ của người Sumer có khắc họa một loại xe chở hàng có gắn bánh tròn bằng gỗ cưa từ thân cây.
Bánh xe có nan hoa đầu tiên được tạo ra trên bán đảo Tiểu Á (ngày nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) vào khoảng 2.000 năm trước Công nguyên và lập tức được du nhập sang châu Âu và Trung Quốc, Ấn Độ qua các lái thương. Bánh xe loại này chủ yếu được dùng trong các loại xe chở người, riêng người Ai Cập thì dùng để vận chuyển hàng hóa, vật liệu xây dựng.
Bánh xe được sử dụng rất rộng rãi tại Hy Lạp cổ đại và sau đó tại La Mã. Ở châu Mỹ, bánh xe được các nhà hàng hải châu Âu du nhập vào khi họ tìm ra châu Mỹ.
Tổ tiên chúng ta thời xưa biết tết những sợi đay, sợi vỏ cây làm quần áo và họ dùng xương thú, gai cây thay cho cúc áo. Người Ai Cập và La Mã cổ đại thì khoét lỗ trên một đầu tấm vải dùng làm áo rồi luồn đầu kia qua, hoặc buộc thắt nút. Người Trung Quốc dùng dây rút trong nhiều thế kỷ.
Không ai biết cúc áo do ai phát minh ra. Một số nhà sử học khẳng định, cúc áo có từ thời La Mã, một số khác cho rằng từ thời Hy Lạp cổ đại, trong khi một nhóm nhà khoa học khác đưa ra những dẫn chứng về nguồn gốc châu Á của cúc áo.
Những chiếc cúc đầu tiên được đưa vào sử dụng từ thế kỷ 8 và mãi cho tới tận thế kỷ 18, nó được xem là vật xa xỉ mà chỉ có nhà giàu mới dám dùng. Vua chúa thì dùng cúc bằng vàng, bạc. Người nhà giàu dùng xương voi. Còn dân thường thì vẫn buộc thắt nút, hoặc dùng dải rút. Đầu thế kỷ 18, người châu Âu bắt đầu sản xuất cúc bằng thép và đồng. Tới tận cuối thế kỷ 19, cúc vẫn còn là đồ vật đắt tiền nên người ta khi may áo mới thường tháo cúc từ áo cũ đơm sang.
Khoảng 3.000 năm trước, một vị vua nghĩ ra cách bảo vệ bản thân khỏi bị lây nhiễm các bệnh hoa liễu trong khi đi "vi hành". Ông đã dùng bong bóng cá trong quan hệ chăn gối.
Từ "condom" (bao cao su) được ra đời vào thế kỷ 17, do khi đó quan ngự y của Vua Anh Carl II có tên là Condom nghĩ ra cách cải tiến bao nhằm giúp cho vua ngăn ngừa sinh con ngoài ý muốn và tránh bệnh hoa liễu khi quan hệ. Vị quan ngự y này dùng ruột cừu cắt khúc, cán mỏng ra và khâu một đầu lại làm thành chiếc bao cho Vua dùng. Về sau, nhân dân cũng học theo phương pháp này, song dùng ruột cừu cũng khá tốn kém nên người ta thường phơi khô để tái sử dụng vài lần nữa.
Tới năm 1839, công nghệ lưu hóa cao su ra đời, cho phép chế tạo cao su thô thành một dạng vật liệu mới - cao su tinh chế, có khả năng đàn hồi tốt. Công nghệ này tạo nên một đại cách mạng đối với bao cao su. Năm 1844, loại bao đầu tiên bằng cao su ra đời và tới năm 1919, người ta sử dụng chất liệu latex làm bao cao su. Đây là loại chất liệu có độ đàn hồi rất tốt, có thể cán rất mỏng và không có mùi cao su. Loại bao cao su này được sử dụng cho tới ngày nay.
Thời xa xưa con người biết rất nhiều cách tạo ra lửa: từ chà xát hai vỏ cây vào nhau hàng giờ liền cho đến dùng đá lửa đập vào nhau... Rồi khi tạo ra được ngọn lửa thì phải duy trì ngọn lửa khá công phu.
Năm 1830, nhà hóa học 19 tuổi người Pháp Charles Soria phát minh ra diêm phốt pho, tạo ra từ hợp chất muối bertollete, phốt pho trắng và keo. Loại diêm này rất dễ sử dụng, khi chà xát với bất cứ bề mặt cứng nào đều có thể phát ra lửa. Do đó, trong nhiều phim, những chàng cao bồi quẹt diêm vào gót giày để châm thuốc hút. Diêm phốt pho không có mùi khó chịu, song có hại cho sức khỏe do chất phốt pho trắng chứa độc tố gây hại.
Tới 1855, nhà hóa học Johan Lunstrom làm một thử nghiệm với chất phốt pho đỏ, đồng thời tráng một lớp mỏng chất này lên bề mặt giấy nhám. Kết quả là ông tạo ra loại diêm mới dễ đánh lửa và ít gây hại hơn cho sức khỏe người dùng. Đây chính là loại diêm chúng ta đang sử dụng ngày nay.
Người La Mã cổ đại dùng bàn chải có cán để làm vệ sinh cá nhân sau khi đi đại tiện. Sau đó họ ngâm nó vào hũ nước muối để sử dụng tiếp. Người Viking chùi bằng khăn, trong khi thổ dân châu Mỹ thì dùng các loại lá cây trong tầm với tay, hoặc dùng lõi ngô. Các vị vua Pháp thì cao cấp hơn: dùng vải lanh.
Người Trung Quốc đi tiên phong trong việc sử dụng giấy làm vệ sinh cá nhân nhưng chỉ có hoàng đế mới được phép dùng. Mãi tới sau này, khi kỹ thuật in phát triển, giấy mới được sử dụng rộng rãi cho việc vệ sinh cá nhân (giấy báo cũ, sách cũ...).
Năm 1857, một người Mỹ tên Joseph Hayetti nghĩ ra cách cắt giấy thành từng tờ vuông vắn và đóng thành gói. Ông rất tự hào với sáng tạo của mình nên in tên mình lên từng tờ giấy. Không rõ sau này ai đã nghĩ ra cách cuộn tròn giấy vệ sinh như ngày nay, chỉ biết rằng năm 1890 xưởng giấy "Scott Paper" ở Mỹ đã sản xuất hàng loạt loại giấy vệ sinh này.
Ngay từ thời đồ đá, con người bắt đầu có những phát minh sáng tạo nhằm giải quyết vấn đề hàng tháng của phụ nữ. Họ sử dụng cỏ khô, lá khô, thậm chí là rong biển. Người Ai Cập cổ đại sáng tạo ra loại băng vệ sinh mà ngày nay người ta gọi đó là tampone bằng sợi cói. Người Hy Lạp cổ đại cải tiến tampone, dùng vải quấn quanh một cái que nhỏ. Tại La Mã cổ đại, phụ nữ dùng vải lụa làm băng vệ sinh. Tại Nhật, họ dùng giấy, trong khi phụ nữ châu Phi dùng bó cỏ khô làm bằng vệ sinh.
Tới đầu thế kỷ 19, người ta bắt đầu dùng những tấm giẻ lau cũ khâu thành cái túi nhỏ, bên trong nhồi bông. Những chiếc băng vệ sinh tân tiến này được giặt, phơi khô và dùng đi dùng lại nhiều lần. Cuối thế kỷ 19, từng có một doanh nghiệp châu Âu sản xuất hàng loạt loại băng vệ sinh giẻ lau này nhưng do không quảng cáo nên dây chuyền sản xuất thất bại.
Đầu thế kỷ 20, phụ nữ bắt đầu dùng vải màn, vải xô. Vào những năm 1920, loại băng vệ sinh làm bằng vải màn bắt đầu được bày bán tại cửa hàng bách hóa và quảng cáo trên tạp chí. Băng vệ sinh loại này được gài vào quần lót bằng kim băng, hoặc nối với dây thắt trên eo.
Cách đây 5.000 năm, con người biết chăm sóc răng lợi. Tại các khu khảo cổ Ai Cập, các nhà khoa học tìm thấy những bàn chải răng được làm từ cành cây có sợi tơ ở đầu.
Tuy nhiên, phải đến năm 1498, Hoàng đế Hoằng Trị nhà Minh (Trung Quốc) mới sáng tạo ra loại bàn chải mà chúng ta dùng ngày nay. Chiếc bàn chải của vua Hoằng Trị được làm từ xương thú, còn sợi chải răng thì làm từ lông lợn rừng Siberia.
Năm 1937, con người phát minh ra nylon. Một năm sau đó, bàn chải bắt đầu được làm từ sợi nylon nhựa nhưng chưa phổ biến vì sợi nylon thời đó còn khá cứng, dễ dàng gây tổn thương cho nướu. Lông lợn rừng do mềm mại hơn nên tiếp tục được sử dụng tới tận giữa thế kỷ 20.
Chúc các bạn có những giây phút thú vị,hãy cùng nhau đóng góp để diễn đàn ngày một lớn mạnh hơn!!!
Cám Ơn Bạn Đã Đánh Giá Bài Viết!
Message reputation : 100% (2 votes) |